Những năm qua, Đảng đã tích cực lãnh đạo, chỉ đạo, ngăn ngừa những nguy cơ này. Tuy nhiên, hiện nay các nguy cơ vẫn còn tồn tại, có một số mặt diễn biến có tính chất phức tạp hơn, như tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, những mâu thuẫn xã hội. Các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, âm mưu lật đổ, tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta. Chúng đã và đang triệt để khoét sâu những khó khăn, yếu kém của chúng ta để thực hiện cho được âm mưu chiến lược của chúng. Do vậy, Đảng phải tăng cường công tác xây dựng Đảng, củng cố bộ máy Nhà nước, hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới là hết sức cần thiết và cấp bách. Nếu chúng ta thực sự đoàn kết, vững vàng, bản lĩnh chính trị cao và dựa trên trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân thì không thế lực nào ngăn cản con đường phát triển của đất nước ta.
Kiên định vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề cán bộ và công tác cán bộ, Đảng đã thực hiện nghiêm các nguyên tắc của Đảng, đặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu thật sự có đức, có tài, có uy tín trong Đảng và nhân dân. Xây dựng Đảng phải gắn kết chặt chẽ với lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Đảng ta trong từng thời điểm đã ban hành nhiều nghị quyết, quy định, hướng dẫn thể hiện các chủ trương, quan điểm về cán bộ và công tác cán bộ. Tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình, quy định công tác cán bộ ngày càng chặt chẽ, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ hơn. Đáng chú ý là Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII)[1] khẳng định: "Cán bộ là nhân tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng". Đặc biệt, 05 quan điểm và 08 nhóm nhiệm vụ, giải pháp nêu trong Nghị quyết số 26-NQ/TW[2] là rất cần thiết, vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, vừa đáp ứng nhiệm vụ chiến lược, cơ bản, lâu dài của công tác xây dựng Đảng trong những năm tới, là bước vận dụng đầy đủ, cụ thể tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ trong thời kỳ mới. 05 quan điểm đó là:
(1) ‘’Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu "then chốt" của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững’’ (Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nhiều lần khẳng định: Xây dựng Đảng là nhiệm vụ “then chốt” thì công tác cán bộ là “then chốt” của nhiệm vụ “then chốt”).
(2) Thực hiện nghiêm, nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với xây dựng thể chế, tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Phân công, phân cấp gắn với giao quyền, ràng buộc trách nhiệm, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và xử lý nghiêm minh sai phạm.
(3) Tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, thường xuyên đổi mới công tác cán bộ phù hợp với tình hình thực tiễn. Xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới; thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân; đặt trong tổng thể của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, thu hút, trọng dụng nhân tài.
(4) Quán triệt nguyên tắc về quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ; quan điểm giai cấp và chính sách đại đoàn kết rộng rãi trong công tác cán bộ. Xử lý hài hoà, hợp lý mối quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu, trong đó tiêu chuẩn là chính; giữa xây và chống, trong đó xây là nhiệm vụ chiến lược, cơ bản, lâu dài, chống là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên; giữa đức và tài, trong đó đức là gốc; giữa tính phổ biến và đặc thù; giữa kế thừa, đổi mới và ổn định, phát triển; giữa thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân và tập thể.
(5) Xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trực tiếp là của các cấp ủy, tổ chức Đảng, mà trước hết là người đứng đầu và cơ quan tham mưu của Đảng, trong đó cơ quan tổ chức, cán bộ là nòng cốt. Phát huy mạnh mẽ vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị- xã hội và cơ quan truyền thông, báo chí trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó máu thịt với nhân dân; phải thực sự dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ.
Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII xác định rõ hơn nữa tầm quan trọng chiến lược của công tác cán bộ trong tình hình đất nước đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu các cấp đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; phát huy hiệu quả trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu. Hoàn thiện thể chế, quy định về công tác cán bộ, tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí, cơ chế đánh giá cán bộ. Xây dựng quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; thực hiện tốt quy định về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, chống chạy chức, chạy quyền; xử lý nghiêm minh, đồng bộ kỷ luật Đảng, kỷ luật hành chính và xử lý bằng pháp luật đối với cán bộ có vi phạm, kể cả khi đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo động lực cho cán bộ phấn đấu, toàn tâm, toàn ý với công việc. Coi trọng và làm tốt công tác bảo vệ cán bộ, bảo vệ chính trị nội bộ. Kiên quyết phòng, chống các biểu hiện bè phái, “lợi ích nhóm” và lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng để xuyên tạc sự thật, kịch động, gây rối, chia rẽ làm mất đoàn kết nội bộ. Đảng đã có những văn bản cụ thể cho từng khâu công tác cán bộ.
Một là, khâu tuyển chọn cán bộ. Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản đề cập đến tiêu chí cán bộ. Ngày 23/9/2019, Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Quy định số 205-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền. Quy định số 205-QĐ/TW đã chỉ rõ 06 hành vi chạy chức, chạy quyền và 08 hành vi bao che, tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền. Đảng ta đã ban hành nhiều quy định về nêu gương của cán bộ, đảng viên như: Quy định số 101-QĐ/TW ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; Quy định số 55-QĐ/TW ngày 19/12/2016 của Bộ Chính trị về một số việc cần làm ngay để tăng cường trách nhiệm nêu gương; Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương; Quy trình và hồ sơ nhân sự cấp ủy cấp tỉnh nhiệm kỳ 2020-2025... Đặc biệt, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã ban hành Quy định số 214-QĐ/TW ngày 02/01/2020 về “Khung tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý”.
Tại Chỉ thị số 35-CT/TW về đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Đảng ta nêu rõ: “Việc lựa chọn, giới thiệu nhân sự cấp ủy khóa mới phải quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và tiêu chuẩn cán bộ nêu tại Quy định số 89-QĐ/TW, Quy định số 90-QĐ/TW của Bộ chính trị khóa XII”. Kiên quyết sàng lọc, không để lọt những người bản lĩnh chính trị không vững vàng; phẩm chất, năng lực, uy tín giảm sút; thiếu gương mẫu, mất đoàn kết, cục bộ, bè phái, cơ hội, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh; có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; chạy chức, chạy quyền, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế, quy định hiện hành của Đảng, Nhà nước, tiêu chuẩn chính trị và những điều đảng viên không được làm; quan liêu, cửa quyền, thiếu gắn bó mật thiết với nhân dân; bản thân hoặc vợ (chồng), con vi phạm các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước làm ảnh hưởng tới uy tín cơ quan, đơn vị, bản thân cán bộ, kết quả thực hiện nhiệm vụ không cao.
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) đã tổng kết Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) và Trung ương nhất trí ban hành Kết luận số 21-KL/TW ‘’Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống, biểu hiện ‘’tự diễn biến’’, ‘’tự chuyển hóa’’ và Quy định số 37-QĐ/TW về ‘’Những điều đảng viên không được làm’’ thay cho Quy định số 47-QĐ/TW ngày 01/11/2011.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Viết Thông đánh giá : ‘’Đây là một hệ chỉnh thể, khi có Kết luận Hội nghị Trung ương 4, khóa XIII thì ban hành luôn Quy định số 37-QĐ/TW, là hệ thống các văn bản của Đảng nhằm tăng cường xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, toàn diện’’.
Có thể nói, hệ thống các văn bản liên quan đến lựa chọn cán bộ hiện nay đã tương đối đầy đủ, toàn diện và rõ ràng. Vấn đề đặt ra là căn cứ vào các quy định, quy chế, quy trình của Trung ương, các cấp ủy, tổ chức Đảng cần cụ thể hóa tiêu chí lựa chọn cán bộ cho phù hợp với cấp mình trong tình hình mới.
Hai là, coi trọng và đổi mới việc đào tạo, huấn luyện cán bộ. Tuy nhiên, “Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chậm đổi mới, chưa kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, chưa gắn với quy hoạch và theo chức năng”. Vì vậy, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7, khóa XII đã chỉ rõ: xây dựng Chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và học tập ngoại ngữ. Gắn quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh và đẩy mạnh thực hiện luân chuyển cán bộ, lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị để rèn luyện qua thực tiễn ở các lĩnh vực, địa bàn khác nhau. Ngày 27/12/2021, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 50-QĐ/TW về công tác quy hoạch cán bộ nhằm bảo đảm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; bảo đảm chặt chẽ, đồng bộ, liên thông, công khai, minh bạch trong công tác quy hoạch cán bộ. Đẩy mạnh việc phân cấp, phân quyền trên cơ sở nêu cao trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức Đảng, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị, người đứng đầu, đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát trong công tác quy hoạch cán bộ. Coi trọng chất lượng, bảo đảm cân đối, hài hòa, hợp lý, liên thông giữa các khâu trong công tác cán bộ; giữa quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng; giữa đánh giá với quy hoạch, điều động, luân chuyển, bổ nhiệm và sử dụng cán bộ; giữa cán bộ quy hoạch với cán bộ đương nhiệm; giữa nguồn cán bộ ở Trung ương với địa phương, địa bàn và lĩnh vực công tác; giữa nguồn cán bộ tại chỗ với nguồn cán bộ từ nơi khác. Phấn đấu quy hoạch theo cơ cấu ba độ tuổi, tỷ lệ cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số phù hợp với địa bàn, lĩnh vực công tác.
Ba là, đánh giá cán bộ phải khách quan, có tiêu chí rõ ràng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7, khóa XII thẳng thắn thừa nhận: “Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, chưa phản ánh đúng thực chất, chưa gắn với kết quả, sản phẩm cụ thể, không ít trường hợp còn cảm tính, nể nang, dễ dãi hoặc định kiến”[3]. Do đó, Nghị quyết xác định: “Đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng xuyên suốt, liên tục, theo tiêu chí cụ thể, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương; gắn đánh giá cá nhân với tập thể và kết quả thực hiện nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị”[4]. Ngoài những quy định đã ban hành, như Quy định số 89-QĐ/TW ngày 04/8/2017 của Bộ Chính trị khóa XII về “Khung tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”, Quy định số 90-QĐ/TW ngày 04/8/2017 của Bộ Chính trị khóa XII về “Tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý”, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định số 214-QĐ/TW về “Khung tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý”… Trên cơ sở bộ khung tiêu chí, cần có những quy định cụ thể hóa đối với từng loại cán bộ ở các cấp, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu trong đánh giá cán bộ.
Bốn là, bố trí, sử dụng cán bộ cho đúng, cho khéo. “Việc sắp xếp, bố trí, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử vẫn còn tình trạng đúng quy trình nhưng chưa đúng người, đúng việc. Tình trạng bổ nhiệm cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong đó có cả người nhà, người thân, họ hàng, “cánh hẩu” xảy ra ở một số nơi gây bức xúc trong dư luận xã hội”. Vì vậy, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7, khóa XII về công tác cán bộ đã xác định nhiệm vụ, giải pháp đổi mới công tác ứng cử, bầu cử, bổ nhiệm, bố trí, sử dụng cán bộ. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp trên phải kinh qua vị trí chủ chốt cấp dưới; trường hợp đặc biệt do cấp ủy có thẩm quyền xem xét, quyết định. Xây dựng chỉ tiêu cơ cấu phù hợp, nếu chưa bảo đảm chỉ tiêu cơ cấu thì phải để trống, bổ sung sau; gắn việc thực hiện chỉ tiêu với trách nhiệm của cấp ủy và người đứng đầu. Có cơ chế phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ có bản lĩnh, năng lực nổi trội và triển vọng phát triển vào vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả vượt cấp, nhất là cán bộ trẻ…
Năm là, thực hiện tốt chính sách cán bộ. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ bảy, khóa XII về công tác cán bộ cũng chỉ rõ: “Chính sách cán bộ giữa các cấp, các ngành có mặt còn thiếu thống nhất, chưa đồng bộ; chính sách tiền lương, nhà ở và việc xem xét thi đua, khen thưởng chưa thực sự tạo động lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc”. Do đó, Nghị quyết đề ra nhiệm vụ, giải pháp: “Thực hiện lộ trình cải cách tiền lương phù hợp với từng nhóm đối tượng theo vị trí việc làm, chức danh, chức vụ, năng suất lao động, hiệu quả công tác và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, nguồn lực của đất nước. Xây dựng chính sách nhà ở theo hướng Nhà nước thống nhất ban hành cơ chế, chính sách; địa phương quy hoạch đất ở, nhà ở; cán bộ, công chức, viên chức mua và thuê mua. Thực hiện nghiêm, đúng đắn, chính xác chế độ thi đua, khen thưởng”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ chứa đựng những chân lý bền vững đã được thực tiễn cách mạng Việt Nam kiểm nghiệm. Bác đã để lại cho Đảng và dân tộc ta những bài học quý báu về công tác cán bộ và sử dụng cán bộ, qua đó đã từng bước xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước có đủ năng lực, phẩm chất để tiếp tục lãnh đạo cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.
Nghiên cứu những nội dung cơ bản về cán bộ và công tác cán bộ trong di sản tư tưởng của Người, để trên cơ sở đó vận dụng vào đơn vị là vấn đề có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm được đặt ra trong nhiệm kỳ Đại hội XIII: “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh…”[5]. Và đặc biệt coi trọng nâng cao hiệu quả, chất lượng của công tác cán bộ - nội dung “then chốt của then chốt” trong công tác xây dựng Đảng./.
[1] Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 18/6/1997 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII) về ‘’Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước’’.
[2] Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 (khóa XII) ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 về ‘’Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ’’.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2018, tr.48.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, H.2018, tr.62-63.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb.Chính trị quốc gia, t.1, tr 199-200.