Thời gian gần đây, các thế lực thù địch đưa ra luận điệu “Yêu nước không đồng nghĩa với yêu Đảng”, hướng mũi tấn công trên diện rộng nhằm phủ nhận những thành tựu mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm cho đất nước với mục đích kích động, lôi kéo những thành phần bất hảo và những người nhẹ dạ cả tin, nhất là thế hệ trẻ ủng hộ việc xóa bỏ Điều 4 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đòi đa nguyên, đa đảng, xây dựng một chế độ khác không phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Đây là âm mưu thâm độc từ bấy lâu nay, là mầm mống của “diễn biến hòa bình”, “cách mạng màu”… Nếu chúng ta không kịp thời đấu tranh, phản bác thì nguy cơ làm bất ổn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội kéo dài, ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ là khó tránh khỏi.
Trước tiên, chúng ta phải hiểu thế nào là lòng yêu nước và chủ nghĩa yêu nước. Theo V.I.Lênin “Lòng yêu nước là một trong những tình cảm sâu sắc nhất được củng cố hàng trăm năm, hàng nghìn năm tồn tại của các Tổ quốc biệt lập”. Theo Từ điển tiếng Việt “Chủ nghĩa yêu nước” là “lòng yêu thiết tha đối với Tổ quốc của mình, thường biểu hiện ở tinh thần sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc”[1]. Khi xem xét ở phương diện đạo đức và chính trị, chủ nghĩa yêu nước là: “nguyên tắc đạo đức về chính trị mà nội dung là tình yêu, lòng trung thành, ý thức phục vụ Tổ quốc”[2]. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ thực tiễn cách mạng, Người nhận xét: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Từ xưa đến nay, mỗi khi đất nước bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước"[3]. Chủ nghĩa yêu nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gặp gỡ, tổng hòa của tư tưởng yêu nước Việt Nam chân chính; truyền thống tinh hoa văn hóa của dân tộc với hệ tư tưởng tiên tiến của giai cấp công nhân mà chủ nghĩa Mác - Lênin là đại diện. Tinh thần ấy cũng được Giáo sư Trần Văn Giàu viết: "Trông vào lịch sử cũng dài nhiều nghìn năm của dân tộc Việt Nam, từ Văn Lang, Âu Lạc cho đến nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì người quan sát có thể thấy ngay rằng các tư tưởng chủ đạo, cái "lý thường hằng" nhất, quán triệt cổ kim, là chủ nghĩa yêu nước, chống xâm lăng, bảo vệ sự tồn tại của dân tộc, là tư tưởng "không có gì quý hơn độc lập tự do". Tình cảm và tư tưởng yêu nước là tình cảm và tư tưởng lớn nhất của nhân dân, dân tộc Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại, ở đây bản chất Việt Nam biểu lộ rõ ràng, đầy đủ, tập trung nhất hơn bất cứ chỗ nào khác. Yêu nước thành một triết lý xã hội và nhân sinh của người Việt Nam"[4]. Và Từ điển Triết học cũng đã nêu rõ: “Chủ nghĩa yêu nước - nguyên tắc đạo đức và chính trị, một tình cảm xã hội mà nội dung là tình yêu và lòng trung thành với Tổ quốc, là lòng tự hào về quá khứ và hiện tại của Tổ quốc, ý chí bảo vệ những lợi ích của Tổ quốc”[5].
Theo dòng lịch sử, hiếm có quốc gia nhỏ bé nào trải qua ngàn năm Bắc thuộc, hơn trăm năm chịu sự giày xéo của thực dân, đế quốc, “ngăn bước quân thù phía nam phía bắc”, “sáng chắn bão giông, chiều ngăn nắng lửa” nhưng vẫn giữ vững bản sắc văn hóa tinh thần Việt Nam. Đây là nguồn vốn quý báu được tích lũy “từ trong gian khó mà vùng đứng lên” kết tinh lại tạo thành chủ nghĩa yêu nước. Đặc biệt khi có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo với đường lối đúng đắn, chủ nghĩa yêu nước được phát huy cao độ, đạt đến giá trị trọn vẹn, kết thành làn sóng dữ dội cuốn trôi tất cả những khó khăn, thách thức. Bởi Đảng mang trong mình hơi thở thời đại và lý tưởng cách mạng cao cả. Nhiệm vụ của Đảng là hướng ngọn lửa yêu nước của quần chúng nhân dân trở thành ngọn lửa chung của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để hoàn thành sứ mệnh lịch sử là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trước khi có Đảng, chủ nghĩa yêu nước được thể hiện qua các cuộc khởi nghĩa nông dân dưới sự lãnh đạo của Trương Công Định, Nguyễn Trung Trực; phong trào yêu nước theo lập trường phong kiến với phong trào Cần Vương; đấu tranh theo khuynh hướng dân chủ tư sản có: xu hướng bạo động do Phan Bội Châu chủ trì với phong trào Đông Du, tổ chức Việt Nam Quang phục Hội; xu hướng cải cách của Phan Chu Trinh với chủ trương “bất bạo động, bạo động tắc tử”, phải “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”, tiêu biểu có phong trào Duy Tân với đỉnh cao là vụ chống thuế ở Trung kỳ; cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Nguyễn Thái Học….Tất cả đã nhóm lên ngọn lửa yêu nước nhưng chưa đủ để hoàn thành sứ mệnh giải phóng dân tộc, cuối cùng đều bị thất bại vì chưa có đường lối chính trị đúng đắn dẫn đường.
Ngày 5/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành rời Bến cảng Nhà Rồng ra đi tìm đường cứu nước. Trong thời gian bôn ba ở nước ngoài, tháng 7/1920, Người đọc được luận cương của Lênin về “vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” và xác định: “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng Vô sản”[6]. Theo đó, Người chuẩn bị về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho sự ra đời của một chính đảng vô sản. Cuộc họp từ ngày 06/01 đến ngày 07/02/1930 tại Hương Cảng - Trung Quốc, đã quyết định hợp nhất ba tổ chức cộng sản trong nước (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ khi Đảng ra đời, dưới ánh sáng soi đường, dẫn lối của chủ nghĩa Mác-Lênin, bằng đường lối, chủ chương, quan điểm, chính sách đúng đắn, tài tình, sáng tạo của Đảng và Bác Hồ, cách mạng Việt Nam đã vượt qua tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”, “hồi sinh từ đóng tro tàn”, làm nên những giá trị lịch sử mà chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: Lịch sử Đảng ta là “cả một pho lịch sử bằng vàng”. Đó là thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, lập nên nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong bối cảnh đất nước thù trong, giặc ngoài, mới 15 tuổi, Đảng đã lãnh đạo nhân dân làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ vào ngày 7/5/1954 “vang dội năm châu chấn động địa cầu”. Sau đó là kết thúc cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ cứu nước kéo dài 21 năm bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử vào ngày 30/4/1975, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước; thắng lợi vĩ đại của cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Tây Nam, biên giới phía Bắc của Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế cao cả, trong sáng giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng của bè lũ Pôn-Pốt; thắng lợi của gần 40 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới toàn diện, đồng bộ, đưa một nước kém phát triển, chết vì thiếu gạo ăn, đến nay trở thành nước xuất khẩu gạo nhất, nhì thế giới và là một trong 40 nền kinh tế đứng đầu thế giới sau đại dịch Covid-19 với tăng trưởng kinh tế trung bình hơn 7%/năm, quy mô GDP không ngừng được mở rộng, thu nhập bình quân đầu người tăng (cuối năm 2023 đạt 101,9 triệu đồng/người, tương đương 4.284,5 USD, tăng 160 USD so với năm 2022), chất lượng dân số được cải thiện và từng bước được nâng cao, đời sống vật chất và tinh thần đáp ứng với nhu cầu cuộc sống. Từ một đất nước chỉ cần ăn no mặc ấm là đủ thì đến nay đa số người dân đã ăn ngon mặc đẹp, và một số vùng ở trung tâm các tỉnh, thành phố đã ăn sung mặc sướng, sức lao động của con người được giải phóng, lao động chân tay dần được thay thế bởi lao động trí óc, lao động giản đơn dần được thay thế bằng sự chuyên môn hóa ngày càng cao…Và điều mà chúng ta cần khắc cốt ghi tâm, đó là Đảng đã mang lại “giấy khai sinh” và giành lại tấm “sổ đỏ” xác nhận chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ cho đất nước này, để người dân Việt Nam được sống trong độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc, có đầy đủ điều kiện để phát triển toàn diện bản thân.
Điều lệ Đảng đã nói rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”[7] và Đại hội II của Đảng (tháng 02/1951) đã xác định: “Đảng Lao động Việt Nam phải là người lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, trung thành của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, của nhân dân Việt Nam, để đoàn kết và lãnh đạo dân tộc kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn, để thực hiện dân chủ mới. Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”[8]. Tất cả không chỉ thể hiện bằng lý luận mà đã chứng minh bằng hành động “vì nước, vì dân” của Đảng suốt 94 năm qua.
Lợi ích của Đảng cũng là lợi ích chung của toàn dân tộc, hai khái niệm không thể tách rời như những gì các thế lực thù địch đã và đang cố gắng “ly gián” để người dân, đặc biệt là một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên nghe theo, xa rời Đảng, dao động tư tưởng, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, làm con chốt thí trên bàn cờ chính trị mà bọn xấu lập nên để thực hiện âm mưu thâm độc của mình. Nhìn lại những người được trưởng thành từ nền tảng chủ nghĩa xã hội như: Bùi Tín, Cù Huy Hà Vũ, Nguyên Ngọc,…Chúng ta không thể không bùi ngùi xen lẫn những cảm xúc của sự tức giận vì sự trở cờ quá đỗi vong ơn. Và một số thành phần cơ hội, lợi dụng những hạn chế trong quản lý Nhà nước tạo cớ kêu gọi xuống đường biểu tình mang danh nghĩa “tự do, dân chủ”, “yêu nước”, “dân oan”, “bất tuân dân sự”, châm ngòi xung đột về tự do tôn giáo để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đặc biệt, lợi dụng cuộc chiến phòng chống, tham nhũng, tiêu cực mà thời gian qua, Đảng ta đã xử lý nhiều cán bộ chủ chốt, trong đó có cả Ủy viên bộ chính trị, bọn xấu rêu rao là “trong Đảng thanh trừng nhau” để hạ thấp uy tín, vai trò của Đảng. Điều đáng quan tâm hơn nữa là luận điệu “yêu nước không đồng nghĩa với yêu Đảng” đang được các thế lực thù địch tập trung vào thế hệ trẻ Việt Nam, làm cho "khô Đoàn, nhạt Đảng, xa rời chính trị”, mất đi động lực đến từ chính bản thân, không thiết tha phấn đấu đứng vào hàng ngũ của Đảng để rèn luyện, cống hiến, trưởng thành. Thực trạng này là vấn đề đáng lo ngại về tư tưởng cho thế hệ kế cận sự nghiệp mà các bậc tiền nhân đi trước đã gầy dựng nên.
Đất nước đang sống trong thời đại 4.0 với sự tiến bộ vượt trội của khoa học công nghệ thông tin, những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch hàng ngày, hàng giờ đang đăng tải trên các nền tảng xã hội, hướng dư luận đi theo chiều ngược lại với lợi ích của quốc gia, dân tộc. Nếu chúng ta không tỉnh táo sẽ rất dễ bị dắt mũi, tin theo, tự đánh mất mình, đánh mất đi “chủ nghĩa yêu nước”, quên đi đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, trở thành kẻ vong ơn, dần mất đi cái gốc giá trị về đạo đức của con người lúc nào không hay biết. Và luận điệu “yêu nước không đồng nghĩa với yêu Đảng” là nội hàm của những âm mưu như thế.
Hơn ai hết, tất cả người dân Việt Nam nói chung, cán bộ, đảng viên và nhất là thế hệ trẻ nói riêng phải thật sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tin tưởng vào đường lối, chủ trưởng của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Phải khắc ghi rằng “yêu nước đừng quên ơn Đảng”, nếu yêu nước mà quên ơn Đảng là một sự khiếm khuyết về luân thường đạo lý ở đời. Từ đó, không ngừng ra sức lao động, học tập, rèn luyện, cống hiến, trưởng thành, góp phần công sức tạo nền móng vững chắc để cả nước sớm hoàn thành công cuộc quá độ lên chủ nghĩa xã hội, khẳng định giá trị Việt Nam trên trường quốc tế vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam./.
[1] Hoàng Phê, Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 1998, tr.172
[2] Trung tâm biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam, Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.518
[3] Hồ Chí Minh: toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011,tr.38.
[4] Trần Văn Giàu: Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam,Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980, tr.100-101, 100-101, 100-101.
[5] Từ điển Triết học, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1975, tr.712
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 30.
[7] ĐCSVN – Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb CTQGST, H. 2016, tr. 04
[8] Hồ Chí Minh -Toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG, Hà Nội, 2011, tr. 41.