Căn cứ Nghị quyết 41-NQ/TW của Bộ Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nghị quyết số 24-NQ/TW của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường và các văn bản chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Ban Thường vụ Huyện ủy đã triển khai quán triệt; lãnh đạo chính quyền, mặt trận, đoàn thể triển khai thực hiện.
Thực tiễn 10 năm qua, công tác bảo vệ môi trường đạt một số kết quả quan trọng. Việc thực hiện các biện pháp, giải pháp về quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội, thực hiện các dự án...đều tính toán kỉ lưỡng, hạn chế tác động tiêu cực đến tài nguyên, môi trường; tăng cường công tác quản lý nhà nước trong việc sử dụng, khai thác khoáng sản, tài nguyên và các hoạt động có liên quan đến chất thải ra môi trường đều có qui trình xử lý phù hợp...Chú trọng về bảo vệ môi trường ngay từ khâu phê duyệt các quy hoạch, dự án đầu tư. Kiên quyết không cho đưa vào xây dựng, vận hành khi chưa đáp ứng đầy đủ các yêu cầu bảo vệ môi trường theo Quy chuẩn Việt Nam hiện hành. Đã có 100% dự án đầu tư được thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường trước khi đi vào hoạt động; 100% các khu công nghiệp, 90% các cụm công nghiệp phải có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt quy chuẩn môi trường trước khi hoạt động; 100% cơ sở sản xuất, kinh doanh mới phải áp dụng công nghệ sạch và trang bị các thiết bị giảm ô nhiễm, xử lý chất thải. Công tác chủ động phòng, tránh thiên tai; hạn chế và khắc phục xói lở ven biển, dọc các sông, bảo vệ môi trường biển được quan tâm. Trong 2 năm (2005 - 2015), các ngành, địa phương trong huyện đã thực hiện đồng bộ các biện pháp về phòng ngừa ô nhiễm môi trường, nhất là tập trung bảo vệ môi trường ở những khu vực trọng điểm về phát triển đô thị, dịch vụ và du lịch ven biển, vùng có nguy cơ sạt lỡ, các vùng đất ngập nước, khu bảo tồn Hòn Cau, khu xử lý chất thải tập trung và khu nhạy cảm tai biến môi trường ven biển của huyện; hàng năm đều xây dựng kế hoạch ứng phó bão, lũ, thiên tai và dịch bệnh. Định kỳ phối hợp Sở Tài nguyên - Môi trường điều tra, thống kê, đánh giá các nguồn thải theo lưu vực sông, nhất là các nguồn nước thải trước khi thải ra biển, sông. Từ năm 2005 đến nay, nguồn vốn từ trung ương, tỉnh đã đầu tư xây dựng kè chắn sóng ven biển ở địa bàn các xã, thị trấn: Vĩnh Tân, Vĩnh Hảo, Phước Thể, Liên Hương, Bình Thạnh, Chí Công và Phan Rí Cửa.
Việc quản lý chất thải, nhất là chất thải nguy hại trong sản xuất công nghiệp, dịch vụ y tế được tăng cường. Toàn bộ rác thải của huyện được thu gom, vận chuyển đến bãi rác tại xã Phong Phú để chôn lấp hợp vệ sinh. Kết quả thống kê lượng rác thải sinh hoạt trên địa bàn huyện năm 2014 khoảng 18.880 tấn, số lượng rác của mỗi hộ gia đình dao động trong khoảng 1,5 - 2,0 kg/ngày. Tỷ lệ thu gom đạt 95% đối với khu vực đô thị và 80% ở các xã nông thôn. Việc xử lý rác thải y tế nguy hại được thu gom, phân loại đúng thành phần và tập hợp ở khu vực cách ly, sau đó hợp đồng với đơn vị có chức năng để vận chuyển, xử lý theo quy định của Bộ Tài nguyên – Môi trường và Bộ Y tế. Nguồn tài nguyên nước được quan tâm giữ gìn, khai thác hợp lý, phục vụ tốt hơn cho hoạt động kinh tế và đời sống. Công tác quản lý và bảo vệ tài nguyên rừng được chỉ đạo tích cực hơn, đẩy mạnh việc giao khoán bảo vệ rừng cho các hộ gia đình, gắn với phát triển kinh tế hộ gia đình, phát triển đàn bò, hỗ trợ vật tư kỹ thuật cho đồng bào dân tộc thiểu số để phát triển sản xuất, tập trung trồng nhiều loại cây để tạo thêm cây xanh cho rừng phòng hộ, rừng chắn cát bay, nông lâm.
Hoạt động xã hội hoá và sự vào cuộc của các ban ngành, cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân về bảo vệ môi trường đã được đẩy mạnh hơn. Các trường học đã đưa nội dung bảo vệ môi trường giáo dục cho học sinh. Mặt trận, các đoàn thể triển khai nhiều hoạt động đến cấp xã như phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư”, “Tổ phụ nữ tuyên truyền bảo vệ môi trường vì sức khỏe gia đình và cộng đồng”, “Tổ phụ nữ hạn chế sử dụng túi nilon”, “Chương trình toàn dân tham gia công tác quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”, “Gia đình người cao tuổi hạn chế sử dụng túi nilon”, tổ chức nhiều lớp tập huấn để hướng dẫn nông dân trồng rau sạch, hạn chế sử dụng phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật trong sản xuất nông nghiệp… Ở các địa phương đã xây dựng quy ước, hương ước bảo vệ môi trường của thôn, khu phố; nhiều mô hình con đường tự quản, tổ vệ sinh tự quản...Đáng chú ý là trong thời gian từ năm 2007 – 2011, Vương quốc Bỉ đã hợp tác, tài trợ, giúp đỡ đầu tư xây dựng bãi chôn lấp rác thải hợp vệ sinh của huyện, các phương tiện chuyên dụng để thu gom rác thải sinh hoạt; hệ thống thoát nước bằng mương kín ở thị trấn Liên Hương; bê tông hóa các con đường đất trong khu dân cư của thị trấn Liên Hương và Phan Rí Cửa; nhà máy và hệ thống cấp nước sinh hoạt...
Các cấp ủy, chính quyền, cơ quan, ban ngành, địa phương của huyện đã tập trung, tích cực giải quyết tình trạng ô nhiễm do chế biến cá hấp tại Xóm Cồn, xã Phước Thể; chủ động phối hợp với các ngành của tỉnh giải quyết ô nhiễm do sản xuất muối của Công ty TNHH Thông Thuận và sự cố ô nhiễm môi trường tại Nhà máy nhiệt điện Vĩnh Tân 2. Vào thời điểm này, tình trạng ô nhiễm môi trường đã cơ bản khắc phục và được nhân dân đồng tình.
Với mục tiêu phát triển bền vững kinh tế-xã hội, gắn với bảo vệ môi trường, Tuy Phong tiếp tục triển khai các giải pháp lãnh đạo trong thời gian tới, đó là:
1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường, trọng tâm là tiếp tục quán triệt, phổ biến rộng rãi các quan điểm, mục tiêu, giải pháp nêu trong Nghị quyết 41- NQ/TW của Bộ Chính trị; Chỉ thị 29-CT/TW của Ban Bí thư và các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác bảo vệ môi trường đến toàn thể cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Xây dựng tiêu chí, chuẩn mực về môi trường để đánh giá mức độ bảo vệ môi trường của từng tổ chức, cơ quan, gia đình, thôn, xóm, tập thể, cá nhân cán bộ, đảng viên.
2. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường, xác định rõ trách nhiệm và phân công, phân cấp hợp lý nhiệm vụ bảo vệ môi trường giữa các ngành, các cấp. Đánh giá môi trường, đánh giá tác động môi trường đối với các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển; kịp thời điều chỉnh các quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển ngành, lĩnh vực hiện chưa đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường, phát triển bền vững. Tăng cường các hoạt động phối hợp thanh tra, kiểm tra, giám sát, đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên thiên nhiên; kiên quyết xử lý các trường hợp vi phạm.
3. Tăng cường nguồn lực tài chính, đẩy nhanh xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi trường, tăng tỷ lệ đầu tư cho bảo vệ môi trường từ nguồn vốn đầu tư phát triển của huyện, đảm bảo các nguồn lực về tài chính cho đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng về bảo vệ môi trường ở khu vực nông thôn. Chú trọng xây dựng các phong trào quần chúng tham gia bảo vệ môi trường. Đề cao trách nhiệm, tăng cường sự tham gia có hiệu quả của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, các phương tiện truyền thông trong hoạt động bảo vệ môi trường. Bảo tồn và phát triển hệ thống cây xanh nhằm bảo vệ cảnh quan môi trường sinh thái; xử lý nghiêm các hành vi phá hoại cảnh quan, cây xanh, các hành vi gây ô nhiễm môi trường. Đưa nội dung bảo vệ môi trường vào cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá và vào tiêu chuẩn để bình xét khen thưởng, gắn với khen thưởng, phổ biến và nhân rộn các mô hình điển hình tiên tiến trong hoạt động bảo vệ môi trường.